Bệnh Sán Lá Ruột Ở Người Có Nguy Hiểm Không?
Sán lá ruột Fasciolopsis buski được mô tả đầu tiên bởi Busk vào năm 1843 và được gọi là sán lá ruột lớn hay sán lá ruột khổng lồ vì kích thước của chúng rất to và là loại sán lá lớn nhất ký sinh ở người.
MÔ TẢ HÌNH THỂ BỆNH SÁN LÁ RUỘT LỚN
Sán lá ruột trưởng thành
Thân có màu nâu hay xám, có hình chiếc lá và dạng hơi cùn ở phía miệng, không có thể hình nón. Hai nhánh ruột đơn, không phân nhánh nhỏ. Tinh hoàn phân thành nhiều nhánh, chiếm gần hết phần giữa và phần sau của thân. Kích thước dài từ 30-75mm, ngang 10-20mm.
Trứng sán lá ruột lớn
Trứng sán lá ruột lơn có hình bầu dục, vò trong suốt, có nắp, kích thước khoảng 80 x 150 µm, rất giống trứng của sán lá gan lớn Fasciola spp. Nhưng hơi phình ở giữa và noãn hoàng trong trứng chiết quang nhiều hơn.
CHU TRÌNH PHÁT TRIỂN BỆNH SÁN LÁ RUỘT LỚN
Sán ruột trưởng thành ký sinh ở ruột non của heo hay người. Sán đó đẻ khoảng 13.000 đến 26.000 trứng mỗi ngày trong ruột và được thải theo phần ra bên ngoài. Ở ngọại, sán lá ruột non cảnh nếu gặp môi trường nước, trứng sẽ tiếp tục phát triển và nở ra ấu trùng lông (Miracidium) bơi lội trong nước. Ấu trùng lông sau đó sẽ xâm nhập vào ốc tiếp tục phát triển các giai đoạn bào tử nang (Sporocyt), ấu trùng đuôi (Cercaria).
Ấu trùng đuôi sẽ thoát ra khỏi ốc và bơi lội trong nước sau đó sẽ hóa thành nang ấu trùng (Metacercaria) trên bề mặt của các loại cây sống trong nước ao hồ. Heo hoặc người ăn các loại loại rau thuỷ sinh dưới nước có nang ấu trùng còn sống, khi đến ruột non, sán non sẽ thoát ra khỏi nang và dần biến thành sán lá ruột trưởng thành trong vòng 90 ngày. Sán lá ruột trưởng thành có thể sống đến 1 năm.
ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ BỆNH SÁN LÁ RUỘT LỚN
Bệnh sán lá ruột lớn Fasciolopsis buski được phát hiện trên người và heo tại nhiều nước của ở châu Á (WHO 1995b) như Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam, Cambodia, Lào, Thái Lan, Maylaysia, Ấn Độ. Tại Việt Nam, cho đến năm 2005 một số công trình nghiên cứu khoa học cho thấy sán lá ruột gặp ở các tỉnh Yên Bái, Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Cạn, Phú Thọ, Quảng Ninh, Bắc Giang, Hà Tây, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Huế, Đắc Lăk, Cần Thơ và An Giang và báo cáo được tìm thấy ở heo là chính 33% - 80% và 0,16% - 3,82% ở người.
Người hoặc heo bị nhiễm sán lá ruột lớn Fasciolopsis buski có thể do ăn sống các rau thuỷ sinh có nang ấu trùng như các loại rau muống, rau nhút, rau ngò, rau cải xoong, ngó sen, quả sung, củ năng, củ ấu, các loại bèo... hoặc do uống phải nước có nang ấu trùng. Ốc ký chủ trung gian gây bệnh là các giống Planorbis, Indoplanorbis, Segmentina, Hippeutis và Gyraulus thuộc họ Planorbidea.
BIỂU HIỆN LÂM SÀNG BỆNH SÁN LÁ RUỘT LỚN
Giai đoạn đầu nếu nhiễm số lượng sán ít, bệnh nhân không có triệu chứng gì, nếu nhiễm số lượng sán nhiều bệnh nhân có cảm giác mệt mỏi, suy nhược.
Giai đoạn toàn phát, bệnh nhân đau tức vùng bụng dưới kèm theo tiêu chảy, phân lỏng, nhày, không có máu, màu vàng nhạt, rất hôi thối.
Bạch cầu ái toan EOS có thể tăng 20% - 25%. Nội sọi thấy niêm mạc ruột non có thể phù nề, viêm và có đốm xuất huyết ở chỗ sám bám. Nếu nhiễm sán quá nhiều và không điều trị có thể gây tắc ruột. Tại Việt Nam đã ghi nhận trường hợp một trẻ em ói ra 8 con sán trưởng thành. Độc tố của sán lá ruột có thể gây chứng phù nề toàn thân, trướng bụng, tràn dịch nhiều nội tạng và người bệnh có thể chết trong tình trạng suy kiệt.
CHẨN ĐOÁN BỆNH SÁN LÁ RUỘT LỚN
Các triệu chứng lâm sàng biểu hiện khi thăm hỏi bệnh nhân và yếu tố dịch tễ chỉ giúp hướng đến bệnh do sán lá ruột lớn, cho nên để chẩn đoán chính xác bệnh cần phải xét nghiệm phân tìm trứng hoặc tìm thấy sán trưởng thành trong phân hay có trong dịch ói. Tuy nhiên, do hình dạng trứng của sán lá ruột lớn Fasciolopsis buski và trứng của sán lá lớn Fasciola spp. tương đối giống nhau nên cẩn thận khi kết luận. Vì nếu không có kinh nghiệm kết luận sai sẽ điều trị sai gây hệ luỵ rất lớn cho người bệnh.
ĐIỀU TRỊ BỆNH SÁN LÁ RUỘT LỚN
Bệnh sán lá ruột cần điều trị bằng Praziquantel và các thuốc hỗ trợ triệu chứng khác nếu có
PHÒNG NGỪA BỆNH SÁN LÁ RUỘT LỚN
Tương tự như phòng ngừa bệnh do sán lá gan lớn… cần phải giáo dục người dân không đi tiêu bừa bãi nhất là cư dân ở vùng có sông rạch, ao tù… không sử dụng cầu tiêu trên sông hay cầu tiêu trên ao thoát nước ra sông rạch ao hồ. Không ăn rau sống, không uống nước sông, không rửa rau bằng nước ao. Không nên nuôi heo thả rong, không thải nước từ chuồng trại ra sông, rạch. Điều trị cho những người nhiễm sán lá ruột.